Bộ sưu tập gồm 100 tác phẩm điêu khắc và bình hoa trang trí hình rồng Việt Nam vừa được ra mắt tại Trung tâm Ngàn năm gốm Việt, tọa lạc tại làng thủ công Bát Tràng, Hà Nội.
Rồng Việt Nam có lịch sử 1.000 năm. Họ hiện diện dưới các triều đại Lý (1010-1225), Trần (1225-1400), Lê sau (1428-1789) và Nguyễn (1802-1945).
Bộ sưu tập gốm sứ “Long Phi Vận Hội” được các nghệ nhân làng gốm Bát Tràng sản xuất nhằm chào mừng Tết Nguyên đán Kỷ Hợi 2024 sắp tới. Đây là một bộ sưu tập lớn gồm 100 sản phẩm được trưng bày tại Trung tâm Ngàn năm gốm Việt, ngoại ô Hà Nội.
Theo Tiến sĩ Nguyễn Trường Giang thuộc Trung tâm Nghiên cứu Kinh thành (RCIC), hơn chục năm qua, các chuyên gia, thợ thủ công đã nghiên cứu, phục chế và làm sống lại các họa tiết rồng trong lịch sử Việt Nam, khắc họa trên các tác phẩm gốm sứ. “Những tác phẩm sau mang bản sắc thuần Việt, gợi lên ký ức vàng son về nền văn minh Đại Việt xưa. Từng chi tiết, đường nét của con rồng đều được vẽ một cách tinh tế, thể hiện sự chính xác và khéo léo của người thợ gốm Bát Tràng”, ông giải thích.
Đồ gốm được trưng bày là lọ, cốc, bình nhưng có kích thước lớn hơn bình thường và chỉ dùng để trang trí. Một bộ sưu tập độc đáo gồm 100 tượng rồng gốm được làm từ các triều đại Lý, Trần, Hậu Lê và Nguyễn cũng được trưng bày.
Không có câu chuyện hay truyền thuyết nào của Việt Nam mà không có loài vật huyền thoại và thần thoại này, loài vật thường được gọi là “con Rồng”. Nó chiếm vị trí đầu tiên trong bốn con vật có năng lực siêu nhiên (tứ quý) đó là: rồng, kỳ lân, quy và phượng. Nó thường được sử dụng trong trang trí và điêu khắc, không chỉ xuất hiện ở chùa mà còn ở mép mái nhà, dầm khung, đồ nội thất, bộ đồ ăn và vải.
Gốm kết nối quá khứ với hiện tại và tương lai
Theo ông Nguyễn Trung Thành, một trong hai người sáng lập Trung tâm Ngàn năm gốm Việt, để hoàn thành một tác phẩm gốm sứ phải mất 30 ngày, với hàng chục công đoạn phức tạp, được thực hiện bởi các nghệ nhân, thợ lành nghề. “Đầu tiên, người thợ thủ công tạo hình chiếc bình. Sau đó, một nghệ sĩ vẽ rồng lên đó. Cuối cùng, các bước tráng men và nung gốm được đảm nhận bởi những người thợ gốm có kinh nghiệm. Phần cấu thành của chiếc bình được thực hiện bởi những người thợ thủ công giàu kinh nghiệm, còn phần nghệ thuật là tác phẩm của những nghệ nhân gốm sứ trẻ được đào tạo tại các trường nghệ thuật”, ông giải thích.
Ông Thành hy vọng những món đồ gốm tinh xảo, hiện đại này sẽ trở thành biểu tượng của Hà Nội. Ông cũng mong muốn trung tâm sẽ là “ngôi nhà chung” cho tất cả mọi người, nơi những người yêu thích gốm sứ, các nghệ nhân, nhà nghiên cứu và đặc biệt là những người sưu tầm gốm sứ, thủ công mỹ nghệ có thể hội tụ, bàn luận về nghề truyền thống Việt Nam này. Ông cho biết: “Các nghệ nhân làng Bát Tràng có thể tạo ra những sản phẩm gốm sứ nổi bật và những bộ sưu tập độc đáo ở đây”. Ông nói thêm: “Đồ gốm không chỉ có giá trị di sản được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác mà còn góp phần truyền tải văn hóa Việt Nam, gắn kết quá khứ với hiện tại và tương lai ”.
Các nghệ nhân của Trung tâm Ngàn năm gốm Việt hiện đang tiến hành nghiên cứu phục chế đồ gốm men nâu nổi tiếng của Bát Tràng. Dòng gốm thuần Việt này phát triển mạnh mẽ dưới thời Lý và Trần (thế kỷ 11 đến thế kỷ 15). Họ cũng mong muốn trưng bày các sản phẩm gốm sứ trong không gian triển lãm đương đại nhằm mang lại sức sống mới cho gốm sứ truyền thống, đồng thời truyền lại cho thế hệ tương lai.
Được coi là nơi khai sinh ra gốm sứ ở Việt Nam, Bát Tràng là một làng nghề truyền thống nằm cách trung tâm Hà Nội khoảng 13 km về phía Đông Nam. Sự nổi tiếng của nó đối với gốm sứ và đồ gốm có từ thế kỷ 14. Gốm Bát Tràng độc đáo về vẻ đẹp và chất lượng. Lõi sét điển hình của Bát Tràng là hỗn hợp cát sông Hồng và phù sa. Men được nung ở nhiệt độ tương đối cao, từ 1.250°C đến 1.320°C, mang lại màu sắc đậm đặc trưng của gốm sứ cổ.
Lớp men dùng làm đồ gốm là loại tro thu được bằng cách đốt trấu, trộn với bùn và bột đá vôi theo một tỷ lệ nhất định rồi nghiền mịn. Người thợ gốm phải cẩn thận trong việc lựa chọn đất sét.
Trước đây, các hộ gia đình ở Bát Tràng sử dụng lò đốt than, nhưng lò gas đã trở thành tiêu chuẩn trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần giảm thiểu ô nhiễm môi trường. Việc phát huy làng nghề cùng với việc bảo vệ môi trường sẽ mang lại sự phát triển bền vững cho hoạt động này kéo dài qua nhiều thời đại.
TLH